Ứng Dụng Chế Phẩm Sinh Học (Probiotics) Trong Nuôi Trồng Thủy Sản
Từ xuất phát từ tiếng Hy lạp, có nghĩa là "cho sự sống". Lilley và Stillwell (1965) đã dùng thuật ngữ này để mô tả những chất được bài tiết ra từ một sinh vật nào đó mà có tác dụng kích thích tăng trưởng cho một sinh vật khác. Năm 1974 Paker đã định nghĩa là các sinh vật và các hợp chất góp phần vào sự cân bằng vi sinh hệ trong hệ thống tiêu hóa. Sau đó Fuller (1989) đã chỉnh sửa và định nghĩa lại với là sự bổ sung một loại thức ăn vi sinh vật sống mà có tác dụ ng có lợi cho vật chủ qua việc cải tiến sự cân bằng vi sinh hệ trong đường ruột của vật chủ. Mục đích của việc áp dụng là nhằm để thiết lập lại mối quan hệ giữa các vi sinh vật có lợi và cơ hội cấu thành hệ vi sinh vật trong đường ruột.
Một loại có hiệu quả là phải có khả năng tồn tại và hoạt động trong một môi trường đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo Fuller (1989) thì nó cần phải có những khả năng như sau:
Việc sử dụng vi khuẩn đường ruột có lợi trong thức ăn cho người và động vật trên cạn đã được biết đến nhiều. được sử dụng phổ biến để kiểm soát và phòng bệnh do các vi sinh vật mầm bệnh trong ống tiêu hóa của nhiều động vật trên cạn. Vi khuẩn có trong yaourt giúp tăng khả năng tiêu hóa và kháng lại vi khuẩn có hại trong đường ruột.
Lý thuyết kiểm soát sinh học đã được áp dụng trong nuôi trồng thủy sản. Nhiều nhà khoa học đã cố gắng sử dụng một số loại trong nuôi thủy sản để điều khiển quần thể vi tảo của nước trong ao, kiểm soát vi sinh vật gây bệnh, để tăng cường sự phân hủy các hợp chất hữu cơ dư thừa và cải thiện môi trường ao nuôi. Ngoài ra, việc sử dụng có thể gia tăng quần thể các sinh vật làm thức ăn, cải thiện mức dinh dưỡng của các loài thủy sản nuôi và tăng cườ ng khả năng miễn dịch của vật nuôi với mầm bệnh.
Như vậy, định nghĩa của đối với nuôi trồng thủy sản được mở rộng, nó bao gồm cả việc bổ sung vi khuẩn sống vào ao nuôi, những vi khuẩn có lợi này sẽ cải thiện thành phần vi sinh vật của nước và nền đáy nhằm cải thiện chất lượng nước. được giả định là gia tăng tình trạng sức khỏe của vật nuôi bằng việc loại trừ các mầm bệnh hoặc hạn chế tối đa tác hại trực tiếp của mầm bệnh. Vi khuẩn có thể bám vào bề mặt bên ngoài của vật chủ ha y đi vào trong ruột hoặc trực tiếp từ nước hoặc qua thức ăn hay qua những hạt có thể tiêu hóa được. Hơn nữa, sử dụng sẽ góp phần làm giảm sử dụng hóa chất, kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho tôm cá nuôi.
được gọi dưới các tên khác nhau như "chế phẩm vi sinh", "vi khuẩn có lợi" hoặc "vi sinh vật hiệu quả", bao gồm vi khuẩn vi khuẩn chuyển hóa đạm, , nấm men... Những vi khuẩn hữu ích này có thể cải thiện chất lượng nước nuôi thủy sản và hạn chế mầm bệnh trong nước từ đó gia tăng năng suất thủy sản nuôi. Trong nuôi trồng thủy sản, được sử dụng như phương tiện kiểm soát dịch bệnh, bổ sung hoặc trong một số trường hợp thay thế các chất kháng khuẩn. Các nhóm vi tảo ( ), nấ ;m men ( , và ), vi khuẩn gram dương ( , , , , , , và ) và vi khuẩn gram âm ( , , , và ) đều được sử dụng.
Tuy nhiên, phương thức hoạt động của chưa được nghiên cứu đầy đủ một cách hệ thống. Theo một số những công trình công bố gần đây, trong nuôi trồng thủy sản,
- Cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết để tăng cường dinh dưỡng cho vật nuôi;
2. Sorgeloos (1994) đề cập đến vấn đề cấy vi khuẩn hữu ích vào trong bể, trước khi thả cá bột, sẽ không những chỉ làm giảm cơ hội cho các vi khuẩn gây bệnh phát triển mà còn có tác động có lợi khi vi khuẩn hữu ích phát triển trong đường ruột của cá bột. Việc sử dụng khẩu phần ăn có chứa có thể có lợi cho cá bột khi bi sốc (stress) do môi trường hày do thao tác. Trong nuôi giáp xác, cũng đóng một vai trò đáng kể.
3. Garriques và Arevalo (1995) cho rằng việc sử dụng , được phân lập từ nước biển, đã làm tăng tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của tôm trong trại giống.
4. Nogami và Maeda (1992) nghiên cứu một dòng vi khuẩn PM-4, phân lập từ ao nuôi ghẹ, dòng vi khuẩn này đã làm giảm số lượng spp. trong nước nuôi ghẹ, và làm tăng năng suất ấu trùng ghẹ.
5. Jiravanichpaisal và Chuaychuwong (1997) sử dụng trong nuôi tôm sú ( ) để hạn chế bệnh gây ra bởi và bệnh đốm trắng. Các tác giả đã xác định được hoạt động ức chế của sp. trên nhóm và sp
Hiện nay, hiệu quả sử dụng của chỉ được khẳng định đối với các trường hợp sử dụng trong điều kiện môi trường được kiểm soát tốt (phòng thí nghiệm, trại sản xuất giống hoặc trại nuôi trong nhà). Trường hợp ở các ao nuôi ngoài trời, điều kiện môi trường biến động lớn thì hiệu quả sử dụng của chưa được chứng minh một cách rõ ràng.